Chủ đề
COVID-19 nguy hiểm thế nào đối với người mắc bệnh mạch máu não?
Chúng ta thường nghĩ rằng những nguy cơ đột quỵ thường liên quan đến tuổi tác và các yếu tố khác nhưng COVID-19 có thể sẽ làm thay đổi quan niệm này.
1. Bệnh mạch máu não
Bệnh mạch máu não là những bệnh phát sinh do lưu lượng máu đến não bị hạn chế do động mạch bị thu hẹp bởi những cục máu đông (huyết khối), tắc nghẽn hoặc vỡ (xuất huyết). Các bệnh mạch máu não thường gặp nhất là đột quỵ, sa sút trí tuệ, chứng phình động mạch não hay hẹp và dị dạng các động mạch khác. Trên toàn thế giới, các bệnh mạch máu não là nguyên nhân gây tử vong phổ biến thứ 2 và nguyên nhân gây tàn tật phổ biến thứ 6 đối với những người sống sót (ước tính có 31 triệu người sống sót sau đột quỵ).
1.1. Nguyên nhân của bệnh mạch máu não
Các bệnh mạch máu não thường xảy ra với những người đã có tuổi và có thể phòng ngừa được bằng cách kiểm soát các yếu tố nguy cơ nhất định hoặc các khuyết tật bẩm sinh hình thành trước và trực tiếp gây ra tổn thương mạch máu não. Các bệnh mạch máu não có mối liên kết chặt chẽ với tuổi cao và có thể liên quan trực tiếp đến sự khởi phát của xơ vữa động mạch, chứng phình động mạch và tắc mạch. Việc thu hẹp, vỡ hoặc hình thành cục máu đông trong lòng mạch có thể do các yếu tố nguy cơ chính bao gồm tăng huyết áp, béo phì, đái tháo đường type 2 và thói quen hút thuốc. Hậu quả của những thay đổi này đối với mạch máu não là sự giảm oxy và tưới máu cho toàn bộ não hoặc các vùng cụ thể của não. Tuy nhiên, có một số yếu tố nguy cơ như tuổi cao, là nam giới, người da đen hoặc gốc Nam Á và tiền sử đau tim hoặc đột quỵ trước đó không thể kiểm soát được.
Các bệnh lý di truyền hoặc bẩm sinh cũng có thể phá vỡ tính toàn vẹn của động não, làm tăng nguy cơ mắc các bệnh mạch máu não. Phổ biến nhất là tình trạng đột biến gen trên nhiễm sắc thể số 19, thường gặp ở trẻ sinh non khi cơ thể chưa tự điều hòa được lưu lượng máu não.
Các vấn đề khác cũng có thể dẫn đến bệnh mạch máu não bao gồm dị dạng động mạch, trong đó các mạch máu dị dạng này có nguy cơ vỡ và xuất huyết cao hơn bình thường. Bệnh Moyamoya có thể được coi là giai đoạn tiến triển của bệnh động mạch cảnh dẫn đến tắc nghẽn không thể phục hồi do đó làm giảm lưu lượng máu lên não. Những bệnh nhân mắc Moyamoya có nguy cơ đột quỵ, sa sút trí tuệ, suy giảm nhận thức, co giật và suy giảm khả năng vận động cao hơn bình thường.
Khi lưu lượng máu lên não bị giảm hoặc bị gián đoạn dù chỉ trong vài giây, nhu mô não có thể bị thiếu máu cục bộ. Nếu tình trạng thiếu máu cục bộ chỉ diễn ra trong thời gian ngắn và máu được lưu thông trở lại thì cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua (TIA) hay còn gọi là đột quỵ thầm lặng có thể xảy ra. Tuy nhiên nếu tình trạng thiếu máu cục bộ kéo dài lâu hơn, nhu mô não có thể tổn thương hoặc thậm chí là chết vĩnh viễn.
1.2. Các triệu chứng của bệnh mạch máu não
Hầu hết các triệu chứng của bệnh mạch máu não có liên quan đến triệu chứng của đột quỵ. Mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng có thể phản ánh kích thước của khu vực bị ảnh hưởng cũng như mức độ rõ rệt của chứng thiếu máu cục bộ hoặc nhồi máu. Các triệu chứng của bệnh mạch máu não phổ biến bao gồm:
Tê hoặc yếu một chi hoặc mặt (thường là một bên mặt)
Mất thăng bằng
Đau đầu dữ dội, không giống bất kỳ cơn đau đầu nào người bệnh đã trải qua trước đây.
Nói ngọng, nói khó hiểu cũng như không hiểu lời người khác nói
Một số triệu chứng khác cũng có thể xuất hiện ở những bệnh nhân mắc bệnh mạch máu não bao gồm lú lẫn, mất trí nhớ, buồn nôn và chóng mặt.
Người bệnh mạch máu não có thể xuất hiện các triệu chứng đau đầu dữ dội bất thường
Tùy thuộc vào loại và vị trí của vùng não bị ảnh hưởng mà triệu chứng của bệnh mạch máu não còn có thể gặp phải:
Co giật
Chứng đau nửa đầu
Suy giảm nhận thức
Thoát vị não
Với những cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua, các triệu chứng có thể khó nhận thấy. Theo thời gian, nếu tình trạng này lặp đi lặp lại nhiều lần có thể dẫn đến sự suy giảm chức năng não, dẫn đến đột quỵ do thiếu máu cục bộ.
1.3. Chẩn đoán và quản lý bệnh mạch máu não
Chẩn đoán các loại bệnh mạch máu não khác nhau có thể được thực hiện thông qua các xét nghiệm hình ảnh thần kinh khác nhau. Chụp X-quang động mạch não được sử dụng để xác định những tổn thương có thể có của các động mạch vùng đầu và cổ. Siêu âm động mạch cảnh có thể phát hiện ra các mảng bám hoặc cục máu đông trong lòng mạch. Chụp cắt lớp vi tính rất hữu ích để phát hiện đột quỵ xuất huyết vì máu có thể dễ dàng nhận biết mặc dù không thể nhìn thấy ngay những tổn thương do đột quỵ bởi thiếu máu cục bộ. Chụp cộng hưởng từ có thể giúp xác định các dấu hiệu của cơn thiếu máu thoáng qua trước đó và những thay đổi đối với thành phần chất trắng trong não cũng như các bệnh lý về não khác. Một số xét nghiệm hình ảnh khác được sử dụng kết hợp với nhau để cho hình ảnh kỹ lưỡng hơn về vùng đầu và cổ, bao gồm cả các mạch máu.
Có thể chẩn đoán thêm các bệnh mạch máu não bằng các khám sức khỏe để đánh giá khả năng về thể chất/ khuyết tật bên cạnh khám thần kinh. Tiền sử lâm sàng cũng là yếu tố quan trọng để đánh giá xem các triệu chứng có liên quan đến các tổn thương trước đó hoặc các yếu tố nguy cơ hay không.
Điều trị bệnh mạch máu não bao gồm các phương pháp điều trị bệnh tim mạch như thay đổi lối sống (hạn chế uống rượu, áp dụng lối sống tích cực hơn kèm với tập thể dục, giảm cholesterol và chất béo…), điều trị bằng thuốc và phẫu thuật tùy theo loại nguyên nhân. Các loại thuốc điều trị đặc biệt bao gồm aspirin, warfarin (thuốc làm loãng máu), thuốc chẹn beta (hạ huyết áp) và thuốc điều trị đái tháo đường.
Nguy cơ mắc đột quỵ có thể được giảm thiểu bằng cách sử dụng phẫu thuật nội mạch. Trong trường hợp hẹp động mạch cảnh, phương pháp nong động mạch cảnh và đặt stent có thể giúp cải thiện lưu lượng máu não, hoặc phẫu thuật cắt nội mạc tử cung để loại bỏ mảng bám trong lòng mạch.
Phẫu thuật nội mạch giúp bệnh nhân giảm thiểu nguy cơ mắc đột quỵ
Nhiều dạng bệnh mạch máu não có thể được ngăn ngừa bằng cách áp dụng một lối sống cân bằng lành mạnh, ngoài việc dùng thuốc, tuy nhiên, một số dạng là do các khuyết tật bẩm sinh có từ khi sinh ra khiến một người có nguy cơ mắc bệnh mạch máu não cao hơn.
2. Ảnh hưởng của COVID-19 đến người mắc bệnh mạch máu não
Một số vấn đề sức khỏe liên quan đến bệnh tim mạch cũng như các bệnh mạch máu não sau đây có thể làm tăng nguy cơ tiến triển nặng của bệnh do
Một nghiên cứu hồi cứu về dữ liệu từ vụ dịch ở Vũ Hán, Trung Quốc cho thấy tỷ lệ mắc đột quỵ trong số bệnh nhân phải nhập viện vì COVID-19 là 5%. Các tổn thương mạch máu não phổ biến hơn ở những bệnh nhân lớn tuổi có các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp và đái tháo đường. Các nhà nghiên cứu tại bệnh viện Đại học Zurich cũng lưu ý rằng, virus SARS CoV-2 hay COVID-19 lây nhiễm sang vật chủ thông qua enzyme chuyển đổi mạch (ACE2), không chỉ biểu hiện ở phổi mà còn ở tim, thận, ruột và các tế bào nội mô khác.
Một nghiên cứu khác trên 184 bệnh nhân tại đơn vị chăm sóc đặc biệt với chứng viêm phổi do COVID-19 cho thấy 31% trong số họ có các triệu chứng cấp tính thuyên tắc phổi, huyết khối tĩnh mạch sâu, đột quỵ do thiếu máu cục bộ, nhồi máu cơ tim hoặc thuyên tắc động mạch hệ thống.
Các bệnh mạch máu não có thể làm tăng nguy cơ tiến triển nặng của bệnh nhân bị mắc COVID-19
Nghiên cứu hồi cứu của Li, Y. và cộng sự trên 221 bệnh nhân mắc COVID-19 cho thấy có 5,9% trong số đó phát triển các bệnh về mạch máu não sau nhiễm trùng. Trong số những bệnh nhân này có 84,6% được chẩn đoán đột quỵ do thiếu máu cục bộ, 7,7% xuất huyết não, ngoại trừ một bệnh nhân 32 tuổi bị tĩnh mạch não huyết khối xoang. Những phát hiện này cho thấy người lớn bị ảnh hưởng bởi COVID-19 có thể có nhiều khả năng mắc các bệnh mạch máu não và cần chú ý nhiều hơn đến các yếu tố nguy cơ của bệnh mạch máu. Trong nghiên cứu của Yaghi ở 3556 bệnh nhân nhập viện được chẩn đoán nhiễm COVID-19 có 0,9% bệnh nhân bị đột quỵ do thiếu máu cục bộ. Cũng cần lưu ý rằng tất cả những bệnh nhân này đều nhập viện với các triệu chứng của bệnh mạch máu não.
Nhiều nghiên cứu cũng đã kết luận rằng bệnh mạch máu não không hề hiếm gặp ở những bệnh nhân mắc COVID-19. Mà những bệnh nhân này hầu hết là những người lớn tuổi và những người có nhiều yếu tố nguy cơ do đó nhiễm trùng do COVID-19 nặng hơn và phản ứng viêm có thể dẫn đến tình trạng đông máu. Kết quả khám nghiệm tử thi bệnh nhân nhiễm COVID-19 cho thấy mô não bị tăng áp lực và phù nề dẫn đến thoái hóa tế bào thần kinh.
Trên thực tế, nhiễm COVID-19 có phải là yếu tố làm tăng nguy cơ đột quỵ ở những bệnh nhân mắc bệnh mạch máu não hay không vẫn cần thêm nhiều thời gian để nghiên cứu. Tuy nhiên có thể khẳng định sinh lý bệnh của đột quỵ ở những người mắc COVID-19 là do tình trạng tăng đông máu. Tình trạng thiếu oxy cũng có thể góp phần làm tăng mức độ nghiêm trọng của các bệnh mạch máu não.
Thanh Nguyên
Theo vinmec.com