Chủ đề
Đề xuất thanh toán bảo hiểm y tế cho điều trị vô sinh và hiếm muộn
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Viết Tiến nhấn mạnh sự cần thiết của việc đưa ra chính sách mới, dần dần tiến tới việc bảo hiểm y tế chi trả cho các cặp vợ chồng điều trị vô sinh và hiếm muộn.
Vô sinh, hiếm muộn ảnh hưởng trực tiếp đến mức sinh
Giáo sư Tiến, Chủ tịch Hội Phụ sản Việt Nam, cho biết tình trạng vô sinh và hiếm muộn ở Việt Nam ngày càng tăng, cao hơn con số thống kê 7,7% trước đây. Nguyên nhân chủ yếu đến từ lối sống hiện đại, việc kết hôn và có con muộn.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), vô sinh và hiếm muộn sẽ trở thành một trong những bệnh nguy hiểm nhất thế kỷ 21, chỉ sau ung thư và bệnh tim mạch. Tại hội nghị quốc tế về hỗ trợ sinh sản diễn ra vào ngày 7-8/9, Giáo sư Tiến cảnh báo rằng Việt Nam đang đối mặt với mức sinh thấp trong khi tỷ lệ vô sinh lại tăng cao.
“Mỗi cặp vợ chồng cần sinh ít nhất 2 con để duy trì mức sinh thay thế, nhưng ở nhiều địa phương, đặc biệt là TP.HCM và Hà Nội, con số này không đạt. Nguy cơ suy giảm dân số là điều hoàn toàn có thể xảy ra”, ông nói.
Theo số liệu Tổng cục Thống kê công bố tháng 6/2023, tỷ lệ sinh ở TP.HCM chỉ đạt 1,32 con/phụ nữ và Hà Nội là 1,88 con/phụ nữ, mức thấp nhất từ trước đến nay. Toàn quốc, con số này là 1,96.
Những thách thức trong việc sinh con
Vô sinh và hiếm muộn tác động mạnh đến mức sinh của các địa phương, đặc biệt là ở khu vực đô thị. Theo Giáo sư Tiến, nếu không có các biện pháp hỗ trợ kịp thời, trong tương lai chúng ta sẽ phải đối mặt với nhiều hậu quả nghiêm trọng.
Xu hướng kết hôn muộn ở Việt Nam ngày càng phổ biến, làm giảm cơ hội có con. Cùng với đó, áp lực cuộc sống, chăm sóc con cái và chi phí học hành cũng khiến nhiều cặp vợ chồng trì hoãn việc sinh con. Không ít người muốn đợi đến khi có đủ điều kiện về nhà cửa, tài chính mới sinh con, nhưng khi đạt được những điều này thì lại gặp khó khăn về tuổi tác, ảnh hưởng đến khả năng sinh sản.
Chi phí hỗ trợ sinh sản cao so với thu nhập
Mặc dù trình độ điều trị vô sinh ở Việt Nam không thua kém các nước trong khu vực, với hơn 50 trung tâm hỗ trợ sinh sản hoạt động hiệu quả, nhưng chi phí điều trị vẫn là trở ngại lớn đối với phần đông người dân.
Theo Vụ Sức khỏe Bà mẹ – Trẻ em (Bộ Y tế), tỷ lệ thành công của phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) ở Việt Nam khá cao, lên tới 60%. Tuy nhiên, nhiều cặp vợ chồng mong muốn có con nhưng không đủ khả năng tài chính để thực hiện các phương pháp hỗ trợ sinh sản.
Ở một số quốc gia, chi phí thụ tinh trong ống nghiệm được bảo hiểm y tế chi trả, ví dụ như Pháp hỗ trợ miễn phí tới 4 chu kỳ thụ tinh. Trong khi đó, tại Việt Nam, mọi chi phí hỗ trợ sinh sản đều do người bệnh tự chi trả, gây khó khăn cho nhiều gia đình.
Cần có chính sách hỗ trợ từ bảo hiểm y tế
Nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến cho rằng, việc bảo hiểm y tế thanh toán chi phí điều trị vô sinh là cần thiết để giúp các cặp vợ chồng khao khát có con, đồng thời duy trì và ổn định dân số. Tuy nhiên, ông cũng thừa nhận rằng việc này cần thời gian và nên thực hiện từng bước, do Quỹ bảo hiểm y tế còn nhiều hạn chế.
Ông đề xuất rằng, bảo hiểm y tế nên bắt đầu thanh toán cho các bệnh lý liên quan đến vô sinh như phẫu thuật u xơ tử cung, u buồng trứng trước, rồi sau đó khi quỹ bảo hiểm tốt hơn, có thể mở rộng thanh toán cho các phương pháp hỗ trợ sinh sản như thụ tinh ống nghiệm.
Cải thiện chính sách hỗ trợ sinh sản
Công nghệ hỗ trợ sinh sản bao gồm nhiều phương pháp khác nhau như thụ tinh trong ống nghiệm, tiêm tinh trùng vào bào tử noãn, và trữ đông phôi. Đại diện Merck Healthcare khu vực châu Á Thái Bình Dương nhận định, các kiến thức chia sẻ tại hội nghị sẽ giúp nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe sinh sản, đồng thời giải quyết các thách thức lớn về dân số.
Trong năm 2023, Bộ công cụ chính sách hỗ trợ mức sinh dành cho các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương đã được công bố, giúp Việt Nam tham khảo và áp dụng vào thực tế. Bộ công cụ này bao gồm bốn nhóm chính sách: chăm sóc trẻ em, chính sách nơi làm việc, ưu đãi tài chính, và hỗ trợ sinh sản.
Nguồn tổng hợp