Chủ đề
Hoa đu đủ đực có chữa được ung thư?
Trong hoa đu đủ có rất nhiều dưỡng chất quý tốt cho sức khỏe, giúp phòng ngừa một số bệnh, trong đó có ung thư. Nhưng chưa có nghiên cứu nào khẳng định hoa đu đủ chữa được ung thư nên người dân cần phải biết cách dùng hỗ trợ cho đúng cách.
Nhiều dưỡng chất tốt nhưng cần sử dụng đúng
Trao đổi với phóng viên về việc nhiều người đang tin dùng hoa đu đủ đực chữa ung thư, nhưng cũng có những người vì niềm tin này mà phải trả giá, từ u nhỏ biến thành to và chuyển sang giai đoạn cuối không còn khả năng chữa trị… ThS Lê Quốc Thịnh, giảng viên khoa dược Trường cao đẳng Y Hà Nội, khẳng định hoa đu đủ rất tốt cho sức khỏe nhưng cần sử dụng đúng.
Theo ông Thịnh, hoa đu đủ đực thường có màu trắng hoặc xanh, mọc thành từng cụm lớn và phân ra nhiều nhánh nhỏ. Hoa đu đủ giống đực khá hiếm.
Sự khác biệt lớn nhất giữa hoa đu đủ đực và hoa đu đủ thường là ở các thành phần dưỡng chất có trong từng loại hoa. Hoa của cây đu đủ đực rất giàu thành phần beta – carotene, isothiocyanates, axit axetic, phenol, các chất chống oxy hóa và nhiều alcaloid, flavonoid…
Trong tất cả các bộ phận của cây đu đủ thì phần hoa chứa nhiều dược tính nhất (đu đủ đực không ra trái). Hoa thường được nhiều người dân ngâm cùng với mật ong để chữa ho cho trẻ nhỏ. Các nhà khoa học nghiên cứu loài hoa này có tác dụng ức chế tế bào ung bướu. Đặc biệt là bướu tuyến vú, u xơ tuyến tiền liệt và các loại ung bướu khác.
Thành phần dinh dưỡng của hoa đu đủ đực bao gồm: axit gallic, beta carotene, canxi, đạm, carbohydrate, phenol, phosphorus, vitamin A, vitamin B1, vitamin C, vitamin E và tannin.
Nó có tác dụng kiểm soát lượng đường trong máu ở bệnh nhân tiểu đường: đây là lợi ích đầu tiên và quan trọng nhất của hoa đu đủ đực. Uống nước sắc hoa đu đủ đực giúp làm tăng lượng insulin, nhờ đó ổn định đường huyết của bệnh nhân tiểu đường.
“Hoa đu đủ đực có tác dụng chống oxy hóa, ngăn ngừa cholesterol. Trong hoa đu đủ đực có chứa vitamin A, vitamin C, vitamin E và folate (vitamin B9) có đặc tính chống oxy hóa, ngăn ngừa cholesterol và quá trình oxy hóa.
Ngoài ra, các hoạt chất chống oxy hóa trong hoa đu đủ như beta carotene, phenol, axit gallic góp phần hạn chế sự phát triển của các tế bào ung thư trong cơ thể người bệnh. Beta carotene trong hoa còn có công dụng bổ máu, thông mạch, giúp điều hòa tim mạch và góp phần giữ sức khỏe trái tim” – ông Thịnh phân tích.
“Hoa đu đủ đực kết hợp cùng lá và thân cây xạ đen, mỗi vị 40g. Sắc chung lấy nước uống hằng ngày sẽ giúp làm chậm quá trình phát triển của bệnh ung thư. Tuy nhiên, đối với các dược liệu chỉ có tác dụng hỗ trợ điều trị bệnh nên khi có bệnh người dân cần đi khám và tuân thủ điều trị và có thể dùng thêm dược liệu như hoa đu đủ để hỗ trợ theo hướng dẫn của chuyên gia” – ThSThịnh nhấn mạnh.
Không có cơ sở khoa học chữa được ung thư
Đây là khẳng định của GS.TS Nguyễn Bá Đức, nguyên giám đốc Bệnh viện K, phó chủ tịch Hội Phòng chống ung thư Việt Nam, trước thông tin nước sắc lá đu đủ, hoa đu đủ đực chữa khỏi ung thư. Vì thế, người dân không nên tin vào phương pháp này mà tự đánh mất đi cơ hội sống.
Theo ông Đức, việc chữa ung thư bằng nước sắc lá đu đủ, hoa đu đủ là hoang tưởng, không có thật. Đây chỉ là dựa vào suy luận hết sức đơn giản mà không có cơ sở khoa học. Trên thực tế không ai chữa khỏi ung thư bằng đu đủ.
GS Đức phân tích về lý thuyết, bất kỳ một loại thuốc nào đưa ra thị trường phải tiến hành theo 3 bước (pha) chuẩn. Bước 1, nghiên cứu thử nghiệm trong phòng thí nghiệm và trên động vật.
Bước 2, sau khi có kết quả thử nghiệm trên động vật, thuốc đó sẽ được tiến hành thử nghiệm trên người tình nguyện theo dõi trong thời gian 5 năm. Bước 3, sau khi thuốc được hội đồng thẩm định đánh giá có hiệu quả, đơn vị đứng ra nghiên cứu mới xin đăng ký bản quyền và đưa ra thị trường.
Như vậy, để có mặt một loại thuốc mới rõ ràng phải mất một thời gian tương đối dài, qua nhiều khâu kiểm duyệt chặt chẽ. Vì thế, việc cho rằng hoa đu đủ, lá đu đủ chữa được ung thư chỉ là cảm tính không dựa trên y học thực chứng.
Hơn nữa, theo các bác sĩ ở Bệnh viện K, Viện Dược liệu và Hội Đông y Việt Nam, đề tài nghiên cứu về tác dụng chữa ung thư của bài thuốc lá đu đủ đã được triển khai cách đây hàng chục năm nhưng đều thất bại. Và đến thời điểm này, chúng ta chưa có công bố chính thức nào.
Hiệu quả của nó vẫn chỉ dừng lại ở mức độ sử dụng theo kinh nghiệm dân gian và theo các tài liệu không chính thức được công bố lẻ tẻ.
Bác sĩ Trần Đức Cảnh, khoa nội soi thăm dò chức năng, Bệnh viện K, cho rằng đu đủ đã được làm thuốc theo kinh nghiệm dân gian. Lá cây đu đủ được sử dụng để sát khuẩn, kháng nấm, kháng viêm, chữa sốt rét, trừ giun sán. Nước hãm từ rễ đã được sử dụng theo truyền thống trong điều trị các bệnh hoa liễu, bệnh trĩ và bệnh mụn cóc. Rễ đu đủ sắc uống làm thuốc cầm máu trong bệnh băng huyết, bệnh sỏi thận.
Hạt đu đủ cũng cho thấy có khả năng kháng khuẩn mạnh. Hoa đu đủ đực tươi hoặc phơi khô hấp với đường hoặc đường phèn dùng chữa bệnh ho, khàn tiếng.
Tuy nhiên, tác dụng chống ung thư của dịch chiết lá đu đủ mới được ghi nhận trong ống nghiệm và trên chuột. Một số loại tế bào ung thư nhạy cảm với dịch chiết lá đu đủ trong ống nghiệm là tế bào ung thư tiền liệt tuyến, gan, cổ tử cung, phổi, tụy, vú. Và cho tới nay chưa đủ bằng chứng khoa học để khẳng định tác dụng chống ung thư của lá đu đủ trên cơ thể người cũng như liều lượng, độc tính trên người.
Bác sĩ Cảnh khuyến cáo, ung thư biết sớm khả năng trị khỏi cao, không nên nghe theo các phương pháp dân gian trị bệnh từ lá để đánh mất thời điểm vàng điều trị bệnh.
Theo Tuổi Trẻ
Thiếu hiểu biết sẽ mất cơ hội điều trị
Trong nhiều năm công tác tại Bệnh viện K, GS Đức cho biết từng tiếp nhận rất nhiều bệnh nhân ung thư đã tự tước đi sinh mệnh của mình vì chữa bệnh bằng thuốc nam.
Bác sĩ Nguyễn Thị Hương, khoa chống đau, Bệnh viện K, cho biết tháng nào khoa cũng tiếp nhận vài ba bệnh nhân bị tai biến nặng nề do dùng các loại lá thuốc, thuốc nam, hoa lá đu đủ, cao dán… để đắp vào khối u với hy vọng rút mủ lấy ngòi ung thư.
Lúc đến viện khối u sưng to, hoại tử da nên điều trị chủ yếu là nâng cao chất lượng sống, giảm đau cho người bệnh chứ không còn cơ hội chữa khỏi hẳn. Sở dĩ người bệnh phải chịu kết cục đáng buồn như vậy là do thiếu hiểu biết.